1.Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 51 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, một trong những trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án đó là khi xác định được người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành. Tuy nhiên, Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp: Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình; có quyết định đình chỉ thi hành án; có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án. Từ quy định của hai điều luật cho thấy sự mâu thuẫn, bộc lộ rõ vướng mắc, bất cập khi áp dụng trên thực tiễn và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được thi hành án.
Xuất phát từ hạn chế, vướng mắc này, Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 về việc kết thúc thi hành án đã bãi bỏ quy định đương nhiên kết thúc thi hành án đối với trường hợp “có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án”. Theo đó, việc thi hành án sẽ đương nhiên kết thúc trong hai trường hợp đó là:
“1. Có xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình;
2. Có quyết định đình chỉ thi hành án”.
Và để khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập về trường hợp đương nhiên kết thúc thi hành án theo quy định tại Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tại khoản 5 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về việc yêu cầu thi hành án trở lại quy định
“5. Đối với trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01 tháng 7 năm 2015 mà đương sự yêu cầu thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả đơn phải ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án. Yêu cầu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự và phải kèm theo tài liệu liên quan, quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án, nếu có.
Trường hợp không còn quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án, người được thi hành án có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án xác nhận về việc đã trả đơn và thụ lý giải quyết việc thi hành án.“
Theo quy định trên, đối với trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01/7/2015 mà đương sự yêu cầu thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả đơn phải ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án. Yêu cầu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự và phải kèm theo tài liệu liên quan, quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án, nếu có. Việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án tại Điều 31 Luật THADS 2014 quy định:
Đơn yêu cầu phải có các nội dung sau đây:
-
- a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
- b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
- c) Tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
- d) Nội dung yêu cầu thi hành án;
đ) Thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có…
Như vậy, khi tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án trở lại trong trường hợp trả lại đơn yêu cầu trước ngày 01/7/2015 do người phải thi hành án không có hoặc không còn tài sản để thi hành, Cơ quan thi hành án dân sự cần kiểm tra tính hợp lệ của đơn yêu cầu thi hành án xác định, xác minh thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Nếu xác định được người phải thi hành có tài sản để thi hành thì Cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả đơn phải ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án. Nếu xác định được người phải thi hành án không còn tài sản để thi hành thì cần trả lại đơn và từ chối thi hành án theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 37 Luật THADS 2014.
2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện
Xét về kỹ thuật lập pháp, khoản 5 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 thể hiện: Đối với trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01 tháng 7 năm 2015 mà đương sự yêu cầu thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định trả đơn phải ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án. Yêu cầu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự và phải kèm theo tài liệu liên quan, quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án, nếu có. Tuy nhiên, việc kiểm tra tính hợp lệ của đơn yêu cầu thi hành án trở lại và xác minh tài sản bảo đảm cho việc thi hành án tại điểm đ khoản 2 Điều 31 Luật THADS chỉ quy định “thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có”.
Việc kiểm tra xác minh thông tin tài sản, điều kiện của người phải thi hành án điều luật quy định cụm từ “nếu có” vô hình trung đã dẫn đến cách hiểu đó là không nhất thiết phải xác minh về tài sản của người phải thi hành án khi người yêu cầu thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án trở lại. Từ đó, khi xác định đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ (bỏ qua thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án), Cơ quan thi hành án đã căn cứ khoản 5 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 và ra quyết định thi hành án, trong quá trình tổ chức thi hành án xác định tài sản để thi hành án không còn nên phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án (thực tiễn áp dụng đã xảy ra trường hợp này).
Tồn tại hạn chế, thiếu sót trên, chủ yếu do ý thức chủ quan của Cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất, trong thời gian tới cần sửa đổi điểm đ khoản 2 Điều 31 Luật thi hành án dân sự năm 2014 theo hướng bãi bỏ cụm từ “nếu có” đối với trường hợp làm đơn yêu cầu thi hành án trở lại. Trên đây là quan điểm của chúng tôi khi tiếp cận một vụ việc cụ thể, rất mong nhận được ý kiến trao đổi và góp ý của bạn đọc./.
Nguồn: Báo điện tử Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao
Với đội ngũ luật sư và chuyên viên pháp lý giàu kinh nghiệm, Luật Duy Ích – Văn phòng Luật sư Đà Nẵng cung cấp các dịch vụ pháp lý cần thiết cho khách hàng. Đảm bảo uy tín, bảo mật.
3. Dịch vụ cung cấp cho khách hàng gồm:
– Soạn thảo đơn từ, hợp đồng, các giao dịch kinh tế, thương mại, dân sự khác.…
– Luật sư tư vấn, soạn thảo hồ sơ và hướng dẫn khách hàng thực hiện công việc liên quan đến các thủ tục hành chính tại các cơ quan chức năng chuyên môn;
– Luật sư tư vấn, soạn thảo, hướng dẫn hồ sơ và giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại tại các cơ quan có chức năng, thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
– Luật sư giỏi hỗ trợ, thực hiện các thủ tục liên quan đến doanh nghiệp như cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, thay đổi Điều Lệ công ty, các loại giấy phép… để doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật;
– Luật sư giỏi đại diện thực hiện các công việc theo sự ủy quyền của khách hàng liên quan đến việc đàm phán, ký kết hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh cho đương sự trong các vụ án dân sự (Tranh chấp hợp đồng mua bán, tranh chấp hợp đồng vay tài sản, tranh chấp hợp đồng đặt cọc, tranh chấp hợp đồng thuê nhà, tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ); Giải quyết tranh chấp về lao động (Tranh chấp về tiền lương, Tranh chấp về tiền trợ cấp thôi việc, tranh chấp về tiền trợ cấp mất việc, tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng,…); Hôn nhân và Gia đình (Tranh chấp về tài sản chung sau ly hôn, tranh chấp ai có quyền nuôi con, tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng,…); Giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai (Tranh chấp về lối đi liền kề, tranh chấp về ranh giới đất, …); Giải quyết tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp;…
– Luật sư giỏi về lĩnh vực hình sự: Tư vấn các quy định pháp lý liên quan đến hành vi phạm tội của bị can, bị cáo; Hỗ trợ tham gia vào các giai đoạn tố tụng để làm rõ hành vi phạm tội và đưa ra các bằng chứng giảm nhẹ tội cho thân chủ từ các giai đoạn: điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử vụ án; Tư vấn, hướng dẫn, đưa ra phương án khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội cho thân chủ; Thu nhập tài liệu, chứng cứ, tình tiết giảm nhẹ hoặc tìm bằng chứng ngoại phạm nếu khách hàng có hiệu bị oan sai, tìm ra sự thật khách quan của vụ việc; Luật sư tư vấn hướng dẫn bị can, bị cáo các chính sách khoan hồng, chính sách ân xá, đặc xá, cho mãn hạn tù trước thời hạn; Luật sư tham gia vụ án tiến hành tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo giảm nhẹ tội danh;…
Trên đây là ý kiến tư vấn mang tính chất tham khảo. Nếu Quý khách có bất kỳ vướng mắc hoặc cần thêm thông tin chi tiết về vấn đề trên hãy liên hệ với chúng tôi qua số liên lạc 0912 987 103 hoặc đặt lịch hẹn trực tiếp tại 76 Bạch Đằng, Hải Châu, Đà Nẵng. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ. Rất mong nhận được sự hợp tác.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn Luật – Công ty Luật Duy Ích tại Đà Nẵng.